Chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ.

19/10/2010 10:58 AM


Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc quy định năm chế độ, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Đối tượng được thụ hưởng là người lao động tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật về BHXH. Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.

Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc quy định năm chế độ, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Đối tượng được thụ hưởng là người lao động tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật về BHXH. Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.

Xét về tổng quan, mọi người lao động tham gia BHXH đều được thụ hưởng các chế độ BHXH trên cơ sở đảm bảo sự công bằng, hợp lý, có tính đến yếu tố chia sẻ giữa những người tham gia BHXH, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước, các chính sách BHXH ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt từ khi Luật BHXH ra đời và có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2007), chính sách BHXH đã thực sự đi vào cuộc sống, khắc phục, điều chỉnh nhiều vấn đề vướng mắc, tồn tại trước đó và điều quan trọng hơn là đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tham gia BHXH.

Trong Luật BHXH, ngoài các quy định chung về chế độ BHXH đối với người lao động tham gia BHXH, còn có các quy định riêng đối với lao động nữ. Vấn đề này được thể hiện khá rõ ràng trong quy định về chế độ thai sản và chế độ hưu trí.

Về chế độ thai sản, ngay từ khi mang thai đến khi sinh con và nuôi con sơ sinh, lao động nữ đều được thụ hưởng chế độ theo quy định (kể cả trường hợp nhận nuôi con nuôi sơ sinh theo quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp tránh thai). Riêng trường hợp sinh con và nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật thì điều kiện để được hưởng chế độ thai sản là phải đóng BHXH đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

Khi mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 5 lần; khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì tùy thuộc vào số tháng của thai nhi mà được nghỉ việc từ 10 ngày đến 50 ngày; khi sinh con, lao động nữ được nghỉ việc từ 04 tháng đến 06 tháng tùy thuộc vào điều kiện làm việc, tình trạng sức khỏe (người tàn tật theo quy định của pháp luật về người tàn tật) và số con trong một lần sinh; khi nhận nuôi con nuôi, người lao động được nghỉ việc đến khi con đủ 04 tháng tuổi; khi thực hiện các biện pháp tránh thai, người lao động được nghỉ 07 ngày đối với trường hợp đặt vòng tránh thai, 15 ngày đối với trường hợp triệt sản. Mức hưởng chế độ thai sản bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của sáu tháng liền kề trước khi nghỉ việc, ngoài ra lao động nữ sinh con và người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi còn được hưởng trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH, thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH. Điều này có thể nhận thấy quy định chế độ thai sản đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ lao động nữ, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, tạo thuận lợi cho người mẹ có đủ điều kiện chăm sóc con trẻ tốt hơn và đây được coi là sự đầu tư thiết thực của xã hội đối với thế hệ tương lai của đất nước.

Về chế độ hưu trí, mức đóng và phương thức đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất là như nhau giữa lao động nam và lao động nữ. Tuy nhiên lại có sự khác nhau về độ tuổi được hưởng. Trong điều kiện làm việc bình thường, sức khỏe bình thường và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 55 tuổi (lao động nam là 60 tuổi), một số trường hợp đặc biệt về điều kiện lao động hoặc bị suy giảm khả năng lao động, độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ cũng thấp hơn độ tuổi của lao động nam 5 tuổi.

Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính hưởng lương hưu là như nhau, nhưng mức hưởng cũng có sự khác nhau về công thức tính. Mức lương hưu hàng tháng của người lao động đủ điều kiện theo quy định của Luật BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa được hưởng bằng 75%. Như vậy, thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu đủ 75% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng BHXH theo quy định của lao động nữ là 25 năm, của lao động nam là 30 năm. Mặc dù sự khác nhau này không hẳn đã đảm bảo được quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ, trong một số trường hợp và với những nhóm đối tượng nhất định, độ tuổi nghỉ hưu của nữ có thể tăng dần và ngang bằng với nam như lao động trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục…

Vấn đề nêu trên không mang tính chất so sánh thiệt – hơn mà theo quan điểm ưu tiên bảo vệ lao động nữ. Việc thiết kế chế độ, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng các chế độ BHXH của lao động nữ liên quan đến nhiều yếu tố như giới tính, thể chất, tâm sinh lý, văn hóa truyền thống…đặc biệt là thiên chức của phụ nữ nói chung, lao động nữ nói riêng trong việc sinh con, nuôi con và giáo dục con cái, bởi vì tâm lý, tình cảm, tính cách, lối sống…của con trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn từ người mẹ - một trong những yếu tố cơ bản xây dựng nhân cách một con người. Chính vì vậy, chính sách BHXH đối với lao động nữ nằm trong sự tương quan giữa các chính sách khác về phụ nữ như chính sách về sự tiến bộ của phụ nữ; chính sách về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; chính sách bình đẳng giới.

Tiến Mạnh