Gìn giữ không gian cồng chiêng Tây Nguyên

18/07/2011 01:24 PM


Không gian ấy chính là rừng đại ngàn, là buôn làng, nhà rông và những lễ hội tâm linh đã ăn sâu trong đời sống mỗi con người và của các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên.

Không gian ấy chính là rừng đại ngàn, là buôn làng, nhà rông và những lễ hội tâm linh đã ăn sâu trong đời sống mỗi con người và của các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên.

Khi biết tôi trở lại Tây Nguyên để tìm hiểu thêm về văn hóa cồng chiêng, nhà thơ Văn Công Hùng-Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Gia Lai-một người am hiểu văn hóa Tây Nguyên đã khẳng định: “Cồng chiêng là một phần không thể thiếu của văn hóa Tây Nguyên, nếu không có cồng chiêng, Tây Nguyên sẽ không còn là Tây Nguyên nữa...”.

Quả thật, tôi đã nghe lời khẳng định ấy mấy lần rồi, bởi một thời gian dài thường trú “cơm bụi, xe ôm” làm báo ở các tỉnh Tây Nguyên, tôi may mắn được tham gia không ít lễ hội cồng chiêng đặc sắc như lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên lần thứ IV (năm 1999) với sự tham gia của gần 500 nghệ nhân người Bahnar, Jrai, M’Nông, Êđê, Brâu... Người cao tuổi nhất khoảng 70, thấp nhất khoảng 13 cùng nhau biểu diễn những bài cồng chiêng truyền thống của dân tộc mình. Được thức cùng tiếng cồng chiêng trầm hùng tiễn biệt Anh hùng Núp suốt ba ngày, ba đêm ở nhà tang lễ Tỉnh ủy Gia Lai (tháng 7-1999)… Và lần gần đây nhất được tham gia Festival Quốc tế Cồng chiêng lần thứ nhất (tháng 11-2009) tổ chức tại TP. Pleiku.

Tiếng cồng chiêng- biểu tượng tâm linh

Thật lạ lùng, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng chiêng cất lên đâu đó, tôi như bị hút hồn vào thứ âm thanh rộn rã “ma thuật” ấy. Tiếng cồng chiêng lúc ngân cao, vút xa như tiếng gió đại ngàn, lúc chùng xuống, trầm hùng như thác đổ, sâu thẳm mà huyền bí lạ lùng.

Bao đời nay, tiếng cồng chiêng gắn bó với máu thịt con người Tây Nguyên từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt từ giã cõi đời, trở thành bản nhạc nền cho suốt cuộc đời của họ.

 
 
Cồng chiêng đối với người Tây Nguyên không chỉ là khí cụ âm nhạc, là biểu tượng của sự giàu có ở mỗi gia đình, sự hùng mạnh của mỗi buôn làng, mà còn là biểu tượng văn hóa tâm linh đặc sắc của một vùng đất. Cho đến bây giờ những già làng cao tuổi nhất, những nghệ nhân cồng chiêng bậc thầy, đến những nhà nghiên cứu Tây Nguyên học vẫn chưa ai có câu trả lời chính xác cồng chiêng và nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng có mặt ở Tây Nguyên từ bao giờ? Nhưng từ rất xa xưa trong trường ca Đam San, cồng chiêng và âm thanh của cồng chiêng được nói đến như một thứ sức mạnh “vật chất”.


“... Đánh lên tiếng chiêng trầm 
Chiêng ngân khe khẽ
Đánh nhẹ cho gió lùa xuống đất
Đánh cho vang khắp vùng
Rung cho tiếng lùa qua núi
Làm cho bầy khỉ quên bám vào cây
Cho bầy ma quên hại người
Cho chuột, sóc quên đào hang
Cho rắn luồn khỏi tổ
Cho hươu, nai đứng ngó (nhìn) quên nhai cỏ
Cho cả thế gian chỉ có biết
Nghe tiếng chiêng của Hơ Nhi-Hơ Bhi...”

Ai cũng biết, cồng chiêng được đúc bằng đồng, có pha thêm vàng, bạc vào núm chiêng cho tiếng chiêng trong và ngân hơn. Tuy nhiên, các dân tộc ở Tây Nguyên từ trước đến nay chưa có kỹ thuật đúc đồng để làm cồng chiêng, nên hiện nay, người ta vẫn căn cứ vào hình dáng, kích thước, tên gọi của các loại cồng chiêng để đưa ra giả thiết về nguồn gốc con đường cồng chiêng đến Tây Nguyên, như chiêng Lao từ nước bạn Lào qua, chiêng Kur từ Campuchia qua, còn chiêng Yoan từ các tỉnh miền Trung lên, chủ yếu là từ làng chiêng Phước Kiều (Quảng Nam).

Dù chưa có câu trả lời chính xác cồng chiêng có mặt ở Tây Nguyên từ bao giờ, bằng con đường nào, nhưng không ai có thể phủ nhận Tây Nguyên là cái nôi của nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng và là nơi lưu giữ được số lượng cồng chiêng lớn nhất Đông Nam Á. Theo thống kê của các địa phương, Tây Nguyên có hơn 20.000 bộ cồng chiêng với hơn 100.000 chiếc cồng chiêng lớn nhỏ, trong đó Gia Lai có số lượng nhiều nhất, 8.000 bộ với hơn 40.000 chiếc. Đây là con số đáng quý trong công tác bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống ở Tây Nguyên.

Cùng với văn hóa rượu cần, văn hóa nhà rông, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang trở thành tài sản vô giá trong bản sắc văn hóa dân tộc. Có dịp đến với Tây Nguyên khi mùa hoa cúc quỳ nở vàng khắp đồi, công việc mùa màng đã vãn, thóc lúa đã về kho, cửa kho đóng lại, trên khắp các buôn làng, tiếng cồng chiêng rộn rã báo hiệu mùa lễ hội đã đến. Mỗi năm, Tây Nguyên có không biết bao nhiêu lễ hội: Bỏ mả, mừng cơm mới, đâm trâu, đua voi..., không có lễ hội nào thiếu vắng tiếng cồng chiêng. Nói như một già làng người Jrai ở huyện Chư Pah: “Ta sống trong tiếng cồng chiêng, ngày buồn có tiếng chiêng chia sẻ, ngày vui có tiếng cồng chiêng gọi mời...”. Còn Nghệ sĩ Nhân dân Y Brơm không giấu cảm xúc: “Nghe tiếng cồng chiêng cất lên ta như lạc vào một thế giới khác, máu như chảy nhanh hơn, tay chân cứ dần dật muốn xoang, muốn nhảy...”.

Giữ gìn Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Mấy năm trước nạn chảy máu cồng chiêng ở Tây Nguyên đang làm cho nhiều người lo lắng, liệu lên Tây Nguyên có còn được nghe tiếng cồng chiêng? Nỗi lo ấy không phải không có cơ sở. Nhưng Tây Nguyên làm sao mà thiếu được tiếng cồng chiêng, bởi cồng chiêng là máu thịt, tiếng chiêng là hồn người, là biểu tượng văn hóa của đất và người Tây Nguyên. Việc UNESCO công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại là một bằng chứng sinh động vinh danh giá trị văn hóa đặc biệt của cồng chiêng Tây Nguyên, đồng thời khẳng định công lao to lớn của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong gìn giữ phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của cha ông qua hàng ngàn đời nay.

Tuy nhiên, hiện nay cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế-xã hội, rất nhiều giá trị văn hóa, lễ hội ở các buôn làng Tây Nguyên đang có nguy cơ mai một. Cồng chiềng Tây Nguyên cũng nằm trong xu thế ấy. Việc gìn giữ và phát huy những giá trị đặc sắc của cồng chiêng Tây Nguyên, không chỉ đơn thuần về mặt số lượng, mà còn phải gìn giữ cả môi trường không gian thuần khiết đặc trưng của Tây Nguyên. Không gian ấy chính là rừng đại ngàn, là buôn làng, nhà rông và những lễ hội tâm linh đã ăn sâu trong đời sống mỗi con người và của cả cộng đồng. Đó là cách gìn giữ không gian văn hóa cồng chiêng tốt nhất, nhưng đáng tiếc hiện nay các địa phương hầu như chưa đánh giá đúng mực.

Theo Báo Gia Lai