UBTVQH cho ý kiến về Luật Xây dựng sửa đổi, dự thảo Đề án phát triển vùng DTTS

19/09/2019 07:34 AM


Ngày 18/9, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp tục phiên họp thứ 37, cho ý kiến về Luật Xây dựng sửa đổi và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về đề án tổng thể đầu tư phát triển KT-XH vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, giai đoạn 2021-2025.

Ngày 18/9, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp tục phiên họp thứ 37, cho ý kiến về Luật Xây dựng sửa đổi và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về đề án tổng thể đầu tư phát triển KT-XH vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, giai đoạn 2021-2025.

 

 


Toàn cảnh Phiên họp ngày 18/9 của UBTVQH. Ảnh VGP/Lê Sơn

Sửa đổi những vấn đề cấp bách, tháo gỡ vướng mắc, bất cập về thể chế

Tờ trình dự án Luật do Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà nêu rõ mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng năm 2014 là tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi, minh bạch, bình đẳng cho người dân và doanh nghiệp; khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn công tác đầu tư xây dựng; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Quan điểm, yêu cầu xây dựng Luật là bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; phù hợp với thực tiễn, tập trung sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến vấn đề mang tính cấp bách, cần thiết nhất và đã được đánh giá tác động, để tháo gỡ vướng mắc, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện. Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, bảo đảm tính tương thích của các chính sách với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên…

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, cơ bản tán thành các nội dung đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Theo đó, việc ban hành luật sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng; tăng hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí đặc biệt là đối với các hoạt động đầu tư xây dựng có sử dụng vốn nhà nước; tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước…

Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của Luật hiện đang có 2 loại ý kiến, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho biết: Loại ý kiến thứ nhất tán thành với các nội dung sửa đổi, bổ sung; tên gọi của dự thảo luật như Tờ trình của Chính phủ. Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa đổi toàn diện Luật Xây dựng để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay như kiến nghị của một số bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Qua nghiên cứu, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với loại ý kiến thứ nhất vì nhận thấy Luật Xây dựng có phạm vi điều chỉnh rộng, phức tạp, liên quan đến rất nhiều văn bản pháp luật của nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có một số văn bản đang được xây dựng mới và tiếp tục được hoàn thiện. Hơn nữa, Luật Xây dựng có hiệu lực từ đầu năm 2015, một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật mới được ban hành, chưa có nhiều thời gian để đánh giá, tổng kết đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, trước mắt chỉ nên sửa đổi, bổ sung những nội dung thực sự cấp bách, cần thiết, đã được tổng kết, đánh giá và có sự đồng thuận cao. Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban cũng nhất trí với một số ý kiến đề nghị có thể mở rộng thêm phạm vi sửa đổi, bổ sung ở một số nội dung của Luật nếu đáp ứng được các nguyên tắc nói trên.

Đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, các Ủy viên UBTVQH cho rằng, việc sửa đổi là cần thiết nhưng phải xác định những vấn đề cấp bách để sửa đổi. Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nhấn mạnh, vấn để nổi lên và bức xúc thời gian qua chính là tình hình vi phạm trật tự xây dựng. Trong Báo cáo thẩm tra Báo cáo về công tác tư pháp, Ủy ban Tư pháp nhận định, có những công trình xây dựng sai phép kéo dài nhưng không được phát hiện; đến khi phát hiện lại khởi tố doanh nghiệp. Vậy có bao nhiêu chủ thể có trách nhiệm, có thẩm quyền thiếu trách nhiệm? Có sự tiếp tay hay không? Thực trạng này phải chỉ rõ trong Báo cáo tổng kết việc thi hành Luật Xây dựng để từ đó xác định nội dung cần sửa đổi.

 

Vừa đầu tư, vừa hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Cũng trong chiều nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể đầu tư phát triển KT-XH vùng dân tộc thiểu số, miền núi và vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2025.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến, nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với 3,04 triệu hộ, 13,38 triệu người, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Đồng bào DTTS cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Thời gian qua, các địa phương vùng đồng bào DTTS và miền núi có tốc độ phát triển kinh tế cao, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và thu nhập bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông, lâm nghiệp. Kết cấu hạ tầng vùng đồng bào DTTS-MN được đầu tư xây dựng đồng bộ hơn; tiềm năng lợi thế ở từng vùng, từng khu vực được khai thác hiệu quả hơn, góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề được quan tâm đầu tư, đạt được một số kết quả nổi bật. Sự nghiệp y tế, dân số và gia đình tiếp tục đạt được kết quả tốt hơn giai đoạn trước. Công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của cộng đồng các DTTS được quan tâm. Hệ thống chính trị cơ sở được xây dựng ngày càng vững mạnh.

Tuy nhiên, hiện nay, vùng đồng bào DTTS và miền núi vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỉ lệ hộ nghèo cao nhất…

Nguyên nhân chủ yếu là do đồng bào DTTS chủ yếu cư trú ở vùng núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH. Chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng còn nhiều đầu mối xây dựng, quản lý, theo dõi (hiện còn 118 văn bản đề cập đến chính sách); nguồn lực phân tán, dàn trải; chưa phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp; chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của vùng, phát huy nội lực của đồng bào để đẩy mạnh phát triển toàn diện vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho biết, đa số ý kiến của Thường trực Hội đồng Dân tộc tán thành với sự cần thiết xây dựng đề án để có chính sách đủ mạnh đầu tư cho vùng đồng bào DTTS và miền núi, thực hiện mục tiêu thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển và mức thu nhập; khắc phục tình trạng nguồn lực bị phân tán, dàn trải với hơn 100 chính sách vùng đồng bào DTTS và miền núi đang còn hiệu lực.

Cho ý kiến để đẩy mạnh phát triển KT-XH đồng bào vùng DTTS và miền núi, đa số ý kiến của UBTVQH đều cho rằng, riêng với đồng bào vùng DTTS và miền núi thì phải vừa đầu tư, vừa hỗ trợ, vừa cho “cần câu”, vừa cho “con cá”.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng, phải tập trung nguồn lực của cả hệ thống chính trị để thực hiện cho được đề án. Cần thu gọn đầu mối, có phân cấp; đi vào khâu cốt lõi, khâu đột phá, khâu yếu nhất trong tổ chức thực hiện những năm qua. Về hỗ trợ, phải thực hiện theo trình tự ưu tiên từ vấn đề khó khăn nhất của đồng bào hiện nay. Đó là nước cho sinh hoạt và sản xuất, đất đai, điện, giao thông, y tế, giáo dục, văn hóa và các yếu tố khác. Việc giải quyết khó khăn phải theo nhu cầu của từng vùng, không áp dụng chung chung. Hỗ trợ phải gắn liền với tổ chức, bao gồm tổ chức sản xuất, tiêu thụ…, Chính phủ cũng cần tính toán rất kỹ nguồn lực đầu tư để bảo đảm khả năng bố trí nguồn vốn.

Theo Chinhphu.vn