Cần có chế tài thực hiện BHYT bắt buộc đối với học sinh, sinh viên

19/12/2011 03:50 PM


Đó là một trong những khuyến nghị được đưa ra bởi nhóm nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện BHYT học sinh, sinh viên sau 01 năm thực hiện Luật BHYT tại Hội thảo do Bộ Y tế tổ chức ngày 16/12/2011 tại Hà Nội. Tham dự Hội thảo có các đại biểu đến từ Vụ BHYT, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế); Ban Thực hiện Chính sách BHYT, Ban Thu (BHXH Việt Nam) và đại diện Sở Giáo dục&Đào tạo, Sở Y tế, BHXH 03 tỉnh Nghệ An, Tiền Giang, Ninh Bình.

Đó là một trong những khuyến nghị được đưa ra bởi nhóm nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện BHYT học sinh, sinh viên sau 01 năm thực hiện Luật BHYT tại Hội thảo do Bộ Y tế tổ chức ngày 16/12/2011 tại Hà Nội. Tham dự Hội thảo có các đại biểu đến từ Vụ BHYT, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế); Ban Thực hiện Chính sách BHYT, Ban Thu (BHXH Việt Nam) và đại diện Sở Giáo dục&Đào tạo, Sở Y tế, BHXH 03 tỉnh Nghệ An, Tiền Giang, Ninh Bình.
 
Đại diện nhóm nghiên cứu báo cáo tại Hội thảo
Với mục tiêu phân tích các chính sách liên quan đến thực hiện BHYT cho học sinh, sinh viên (HSSV); đánh giá thực trạng thực hiện BHYT cho HSSV; phân tích, xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tổ chức thực hiện bao phủ BHYT đối với nhóm HSSV để từ đó đề xuất giải pháp thực hiện mục tiêu bao phủ BHYT cho HSSV, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn có chủ đích 03 địa phương thuộc 03 khu vực khác nhau để tiến hành nghiên cứu, bao gồm: Ninh Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng; Nghệ An đại diện cho các tỉnh miền Trung và Tiền Giang đại diện cho các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
 
Nhiều đại biểu cho rằng: Nguồn kinh phí trích lại từ BHYT học sinh là nguồn chi chủ yếu cho y tế trường học nhưng công tác BHYT học sinh vẫn chưa nhận được sự chỉ đạo tích cực từ các bộ, ngành (Ảnh minh họa)
Theo khảo sát, cơ cấu HSSV tại các tỉnh khá đồng đều, học sinh tiểu học chiếm số lượng cao nhất (khoảng 44%), học sinh cấp trung học cơ sở chiếm thứ hai (32%) và học sinh trung học phổ thông chiếm khoảng 19%, khối trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học chỉ chiếm từ 6 đến 8% tổng số HSSV tại địa phương.

Cơ cấu HSSV tham gia BHYT năm 2010 tại các tỉnh có sự khác biệt không đáng kể. Tại Tiền Giang và Ninh Bình, tỷ lệ HSSV tham gia BHYT cao nhất thuộc về nhóm trung học phổ thông với con số tương ứng là 90% và 97%, trong khi đó ở Nghệ An nhóm trung học cơ sở có tỷ lệ tham gia BHYT cao nhất (84%). Tỷ lệ HSSV tham gia BHYT tại cả 03 địa phương đều có sự tăng trưởng qua các năm, đặc biệt là trước và sau khi thực hiện Luật BHYT. Tỷ lệ HSSV tham gia BHYT tại Tiền Giang đạt mức cao nhất vào năm học 2009-2010 (57,4%), trong khi năm học 2005-2006 chỉ đạt 36,6%. Trong 03 tỉnh, Ninh Bình là địa phương có tỷ lệ bao phủ BHYT học sinh, sinh viên rất cao, dao động từ 80 đến 90% trong suốt 05 năm từ 2006 đến 2010, trong đó cao nhất là năm học 2009-2010 với 92,8%.

Khi được hỏi về trách nhiệm tham gia BHYT, 95,9% HSSV tại 03 tỉnh cho rằng họ biết trách nhiệm của mình về tham gia BHYT, tỷ lệ này cao nhất ở Nghệ An (100%). Chỉ có 3,2% HSSV trả lời không biết trách nhiệm phải tham gia BHYT và 0,9% không có câu trả lời rõ ràng. Nguồn thông tin chủ yếu HSSV nhận được về việc tham gia BHYT là từ nhà trường và thầy cô giáo (84,8%) và có tới 81,4% HSSV cho rằng họ tham gia BHYT vì cảm thấy cần thiết cho sức khỏe. Hầu hết HSSV cho rằng thời điểm phù hợp để thu BHYT là vào đầu năm học và chỉ nên thực hiện thu một lần (81,3%). 38% HSSV cho rằng thời gian thu phí chỉ nên kéo dài trong 01 tháng và có 59,4% HSSV biết về mức đóng BHYT hiện nay nhưng chỉ có 17,5% HSSV trả lời đúng về mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho việc đóng phí BHYT và có tới 31,6% HSSV không biết về mức hỗ trợ này. Hầu hết HSSV đều cho rằng phạm vi quyền lợi BHYT như hiện nay là phù hợp (64,4%) và 55,3% HSSV biết được mức hưởng BHYT khi đi khám, chữa bệnh.

Về giải pháp tăng tỷ lệ bao phủ BHYT học sinh, sinh viên, hầu hết HSSV cho rằng giảm mức đóng và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh BHYT chính là 02 nhóm giải pháp cơ bản. Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến đề xuất tăng mức hỗ trợ từ ngân sách, mở rộng phạm vi quyền lợi, cải cách thủ tục hành chính trong khám, chữa bệnh BHYT, quy định cụ thể trách nhiệm của nhà trường, v..v…

Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách BHYT, tăng cường công tác quản lý nhà nước về BHYT cũng như tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách. Đặc biệt cần coi trọng công tác phối hợp liên ngành trong thực hiện BHYT học sinh, sinh viên.

Hầu hết các đại biểu tham dự Hội thảo bày tỏ sự nhất trí cao với mục tiêu, phương pháp nghiên cứu và những kết quả đã được nhóm nghiên cứu đưa ra và tham gia nhiều ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật về BHYT nói chung và BHYT học sinh, sinh viên nói riêng.

Đại diện Sở Giáo dục&Đào tạo Ninh Bình, địa phương có tỷ lệ HSSV tham gia BHYT cao nhất trong 03 đơn vị được lựa chọn nghiên cứu cho biết: Mặc dù BHYT học sinh, sinh viên được quy định bắt buộc từ 01/01/2010 nhưng nếu không triển khai quyết liệt sẽ không thể thành công. Tại Ninh Bình, Ngành Giáo dục Đào tạo và Ngành BHXH đã có sự phối hợp hết sức chặt chẽ từ tổ chức tuyên truyền, vận động, thu phí, phát hành thẻ đến đảm bảo quyền lợi cho các em HSSV tham gia BHYT. Đặc biệt, với nhận thức thực hiện Luật BHYT là trách nhiệm và nghĩa vụ, Ngành Giáo dục Đào tạo Ninh Bình đưa chỉ tiêu thực hiện BHYT cho HSSV vào tiêu chí thi đua khen thưởng của các nhà trường, nhờ vậy tỷ lệ HSSV tham gia BHYT của Ninh Bình luôn đạt cao. Vị đại diện này cũng cho biết: Hiện nay, nguồn kinh phí từ BHYT đang là nguồn chi chủ yếu cho hoạt động y tế học đường nhưng tại các văn bản hướng dẫn về công tác y tế trường học của các bộ, ngành chưa đánh giá hết vai trò của BHYT và chưa có sự chỉ đạo sát sao đối với việc phát triển BHYT cho HSSV tại nhà trường.

Đại diện BHXH tỉnh Nghệ An cho biết: Việc quy định mức phí BHYT học sinh, sinh viên cào bằng đối với các khu vực như hiện nay là bất hợp lý. Nên chăng có sự xem xét, hoặc giảm mức đóng hoặc tăng mức hỗ trợ từ nguồn ngân sách đối với học sinh thuộc các khu vực nông thôn, miền núi. Mặt khác, để chính sách BHYT học sinh triển khai hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các ngành chức năng và sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền địa phương.

Đại diện Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế phát biểu: Việc sử dụng phần kinh phí 12% quỹ khám, chữa bệnh BHYT học sinh, sinh viên chăm sóc sức khỏe cho toàn bộ HSSV (cả số tham gia BHYT và không tham gia BHYT) tại nhà trường là chưa hợp lý và mất công bằng, không tạo ra sự khuyến khích HSSV tham gia BHYT. Từ 01/01/2010, HSSV đã là đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT nhưng đến nay tỷ lệ phủ sóng BHYT học sinh, sinh viên mới chỉ đạt 70%, vô hình chung đã làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, cần có chế tài để việc thực hiện BHYT bắt buộc với HSSV đạt hiệu quả.

Đồng thuận với những ý kiến trên, đại diện BHXH Việt Nam khẳng định: Việc hoàn thiện chính sách pháp luật về BHYT nói chung và BHYT học sinh, sinh viên là hết sức cần thiết. HSSV là nhóm đối tượng chiếm ¼ dân số cả nước, hoàn thành việc phủ sóng BHYT đến nhóm đối tượng này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với lộ trình BHYT toàn dân vào năm 2014. Vì vậy cần có những chế tài bắt buộc HSSV tham gia BHYT tránh tình trạng đối tượng bắt buộc nhưng lại tham gia tự nguyện như hiện nay. Việc phân chia mức đóng BHYT học sinh theo các vùng miền dựa trên điều kiện kinh tế và mức độ hưởng thụ các dịch vụ BHYT nhằm đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng là hết sức cần thiết. Công tác tuyên truyền BHYT học sinh ngoài việc hướng tới các đối tượng giáo viên, học sinh, cần đặc biệt quan tâm đến các bậc cha mẹ học sinh, vì đây chính là đối tượng quyết định việc tham gia BHYT cho con em mình.

Cung cấp thêm một số thông tin cho nhóm nghiên cứu, TS. Trần Văn Tiến, Phó Vụ trưởng Vụ BHYT, Bộ Y tế cho biết: Tại hầu hết các nước trên thế giới, việc thực hiện BHYT học sinh trong nhà trường là bắt buộc. Bảo hiểm thương mại chỉ là bảo hiểm bổ sung. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, BHYT và bảo hiểm thương mại đồng hành triển khai tại các trường học tạo thành gánh nặng kép về tài chính cho các bậc phụ huynh. Giải quyết vấn đề cơ chế và hoàn thiện chính sách chính là những yêu cầu đang được đặt ra sau 02 năm thực hiện Luật BHYT và 01 năm thực hiện BHYT bắt buộc đối với HSSV trong nhà trường. TS. Trần Văn Tiến yêu cầu nhóm nghiên cứu nghiêm túc tiếp thu ý kiến góp ý của các đại biểu tham dự Hội thảo, bổ sung và hoàn thiện đề án trong thời gian sớm nhất, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện chính sách pháp luật về BHYT và thúc đẩy công tác BHYT học sinh, sinh viên trong các nhà trường.

Theo Tapchibaohiemxahoi.gov.vn