Nhìn lại qua 05 năm thực hiện Luật BHXH ở Gia Lai

29/09/2011 07:26 AM


Có thể nói Luật bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của người lao động. Sau khi Luật BHXH được ban hành, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, ban ngành đã tăng cường lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chế độ BHXH. Bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai cùng với các cơ quan có chức năng trên địa bàn hàng năm đã phối hợp tuyên truyền thông qua các hình thức

Có thể nói Luật bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của người lao động. Sau khi Luật BHXH được ban hành, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, ban ngành đã tăng cường lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chế độ BHXH. Bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai cùng với các cơ quan có chức năng trên địa bàn hàng năm đã phối hợp tuyên truyền thông qua các hình thức như: Qua sóng phát thanh; đài truyền hình và báo Gia Lai. Phối hợp với Hội đồng pháp luật tỉnh, Ban tuyên giáo tỉnh ủy, Sở Lao động – Thương binh và xã hội; Sở Công Thương, Liên đoàn lao động, Trung tâm giới thiệu việc làm, thông qua các hội nghị tổng kết, mở lớp tập huấn, tổ chức Hội thi tuyên truyền… để truyền thông các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp đến các đơn vị sử dụng lao động. Cùng với Hội nhà báo tỉnh tổ chức cuộc thi viết tin, bài, phóng sự về hoạt động BHXH. Tổ chức in và phát hành tờ rơi những điều cần biết về quyền lợi khi tham gia BHXH. Xây dựng các cụm pa-nô tuyên truyền trên trục đường chính vào các trung tâm thị trấn, thị xã, thành phố. Đặc biệt kể từ năm 2008, BHXH tỉnh đã đưa trang thông tin điện tử vào hoạt động; thực hiện cải cách hành chính thông qua cơ chế “Một cửa”. Qua đó tăng cường công tác phổ biến, trao đổi các chính sách, chế độ BHXH và nêu lên những vấn đề còn vướng mắc, khó khăn ở cơ sở, những kinh nghiệm và tìm cách tháo gỡ khó khăn trong việc tham gia BHXH cho người lao động của các đơn vị. Tích cực phối hợp các ngành chức năng trong công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành nghiêm những nội dung của Luật quy định. Tăng cường công tác ứng dụng các phần mềm trong quản lý ngành. Với những biện pháp trên đã đem lại những kết quả nhất định.

Trước hết, số lượng người tham gia BHXH bắt buộc năm sau cao hơn năm trước. Năm 2007, năm đầu thực hiện Luật BHXH, toàn tỉnh có 1424 đơn vị đăng ký tham gia BHXH với 68.163 người thì đến tháng 6/2011 có 1913 đơn vị với 74.036 người (Đơn vị tăng 34,3% và số lao động tăng 8,61%); 731 đơn vị với 59.795 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (tăng so với năm 2009 là 278 đơn vị và 19.671 người); 351 người tham gia BHXH tự nguyện tăng 7,6 lần so năm 2008. Bên cạnh đó, Bảo hiểm xã hội tỉnh đã tổ chức cấp sổ BHXH xác nhận quá trình đóng BHXH để làm cơ sở pháp lý thanh toán các chế độ BHXH cho người lao động đầy đủ theo quy định.

Tổng số thu BHXH qua hằng năm cũng tăng lên: Tính đến 30/6/2011 toàn tỉnh đã thu và chuyển về tài khoản thu BHXH Việt Nam với tổng số tiền thu BHXH bắt buộc trên 1.262,6 tỷ đồng. Nếu tính số thu năm 2010 so sánh số thu 2006 trước khi thực hiện Luật BHXH thì tăng lên 2,38 lần. Thu BHXH tự nguyện được trên 2,3 tỷ đồng. Riêng thu bảo hiểm thất nghiệp từ năm 2009 đến 30/6/2011 được trên 68,2 tỷ đồng.

Về công tác giải quyết chế độ BHXH, trong năm năm qua BHXH tỉnh đã thẩm định được 63.004 hồ sơ hưởng các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức với số tiền chi trả trên 108, 9 tỷ đồng; thẩm định: 76.124 hồ sơ hưởng chế độ dài hạn và tổ chức chi trả kịp thời đúng đối tượng với tổng số tiền trên 1.221,6 tỷ đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật BHXH còn một số tồn tại, vướng mắc đòi hỏi các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương cần suy nghĩ có biện pháp khắc phục:

+ Do chính sách BHXH thường xuyên biến động, thay đổi, bổ sung nên công tác tuyên truyền chưa kịp thời và chưa sâu rộng đến đông đảo nhân dân. Nhất là người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến còn một bộ phận người lao động và nhân dân chưa nắm, chưa hiểu nhiều về các chế độ chính sách BHXH để tự bảo vệ hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho họ. Một số cơ quan, đơn vị sử dụng lao động vẫn còn nhầm lẫn chính sách bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm thương mại. Về mặt cơ chế quản lý lao động phải tham gia BHXH, hiện nay tỉnh Gia Lai chưa có cơ chế thống nhất giữa các ngành chức năng phối hợp quản lý số lao động thực tế của đơn vị với số lao động đã tham gia BHXH. Mặt khác, doanh nghiệp đã được cấp giấy phép, mã số thuế nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Số lao động thường xuyên biến động do quá trình thực hiện hợp đồng lao động nên khó tránh khỏi sự chính xác trong thống kê số liệu người lao động. Do vậy, số đơn vị và số lao động ngoài quốc doanh đăng ký tham gia BHXH chưa đạt yêu cầu: Theo số liệu niên giám thống kê, hiện nay số đơn vị ngoài quốc doanh đăng ký tham gia BHXH đạt tỷ lệ 57,83% (502/868 đơn vị) và lao động đóng BHXH chiếm 25,84% (7.443/28.801 người). Đối với hộ sản xuất kinh doanh cá thể : Đơn vị chỉ có 1,03% (9/876 đơn vị), lao động 0,14% (18/12.734 người).

+Về cơ chế chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ bó hẹp ở chế độ hưu trí, tử tuất chưa được mở rộng hưởng như các chế độ BHXH bắt buộc nêm sự mặn mà của người dân tham gia BHXH tự nguyện còn ít.

+Chế tài xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH tuy đã ban hành nhưng chưa đủ mạnh nên chưa phát huy hiệu quả: mức phạt còn quá nhẹ, theo quy định tại Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, thì mức tối đa là 30 triệu đồng, trên thực thế mức này chưa có tác dụng ngăn chặn các công ty lớn có nhiều lao động với số đóng BHXH hàng tỷ đồng khi họ cố tình vi phạm; về cơ chế thì cơ quan BHXH trực tiếp phát hiện ra các sai phạm nhưng không được quyền xử phạt, mà phải báo cáo các cơ quan chức năng, từ đây các thủ tục cũng như việc phối hợp để có thể xử phạt được một đơn vị vi phạm rất phức tạp, kéo dài, do vậy trong thực tế số vụ vi phạm thì nhiều nhưng việc xử lý lại rất ít và rất chậm. Mặt khác biên chế lực lượng Thanh tra ngành Lao động rất ít nên không đáp ứng nhu cầu công việc. Từ đó cũng tạo kẻ hở đối với một số đơn vị chưa thực hiện nghiêm Luật BHXH (Còn nợ đọng đóng BHXH kéo dài, chậm đóng hoặc đóng BHXH hàng quý. Thậm chí có đơn vị ngoài quốc doanh không đăng ký tham gia BHXH hoặc chỉ đăng ký người quản lý và kế toán. Có đơn vị đối phó chỉ đăng ký tham gia nộp tiền lần đầu sau đó để nợ đọng BHXH kéo dài). Năm 2007 tỷ lệ đơn vị nợ chiếm 11,9% và tỷ lệ số tiền nợ so với tổng số phải đóng BHXH chiếm 3,29%, năm 2008: Đơn vị nợ chiếm 35,56%, số tiền nợ chiếm 3,87%; năm 2009: đơn vị nợ chiếm 17,65%, số tiền nợ chiếm 2,35%; năm 2010: đơn vị nợ chiếm 21,20%, số tiền nợ chiếm 2,67% .

Riêng về số nợ, chậm đóng bảo hiểm thất nghiệp: năm 2009 bắt đầu triển khai nên tỷ lệ số tiền nợ chiếm 4,66% so với tổng số phải đóng; năm 2010 chỉ số này chiếm 1,65 % . Năm 2011 số tiền do ngân sách hỗ trợ sẽ chuyển cuối năm nên số nợ tính đến tháng 6/2011 chiếm 8,37%.

+ Về xác định thời gian công tác để thực hiện chế độ BHXH: Những đối tượng khi xác định thời gian công tác có đóng BHXH vào những năm trước tháng 1/1995 để giải quyết chế độ hưu còn khó khăn. Vì hồ sơ gốc của họ bị thất lạc, cơ quan chủ quản không lưu giữ đầy đủ nên không có chứng cứ để xác nhận, nhưng lại quy định để giải quyết chế độ BHXH đòi hỏi phải có hồ sơ gốc. Người lao động chưa hiểu hoặc đang phân vân không biết thực hiện như thế nào.

+ Việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp: Vẫn còn có ý kiến phân vân nội dung xác định rõ đối tượng để tham gia BHTN. Nhất là những người được tuyển dụng vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp nhà nước trước ngày Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ thuộc đối tượng tham gia BHTN nhưng họ vẫn chưa thông suốt vì cho rằng họ là người trong biên chế nhà nước không phải hợp đồng làm việc. Mặt khác khi thực hiện chi trả chế độ trợ cấp thất nghiệp thì vấn đề thời gian đăng ký thất nghiệp, hoàn thiện hồ sơ đề nghị giải quyết trợ cấp và việc phải thông báo tình trạng tìm việc làm trong thời gian đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, gây không ít khó khăn cho người lao động. Theo quy định trong thời hạn 7 ngày người lao động mất việc làm phải đăng ký với Trung tâm giới thiệu việc làm và phải nộp đầy đủ hồ sơ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày đăng ký là rất khó khăn cho người lao động. Mặt khác, giải quyết hồ sơ trợ cấp thất nghiệp do Trung tâm giới thiệu việc làm thực hiện; chi trả trợ cấp và cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho người thất nghiệp trong thời gian hưởng trợ cấp do cơ quan BHXH thực hiện nên họ phải đi lại nhiều lần. Về mức hưởng: Quy định đóng đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng được hưởng 3 tháng trợ cấp là chưa hợp lý, vì người thất nghiệp có thể chỉ đóng đủ 12 tháng để hưởng 3 tháng trợ cấp, như vậy trong vòng 36 tháng có thể hưởng đến 9 tháng trợ cấp.

+ Về giải quyết chế độ TNLĐ: Trường hợp tai nạn giao thông được coi là tai nạn lao động phải có biên bản tai nạn giao thông hoặc biên bản khám nghiệm hiện trường. Trên thực tế nhiều vụ tai nạn xảy ra ở vùng sâu, vùng biên giới rất khó để thực hiện kịp thời cho người lao động. Những đơn vị đóng BHXH trong nước có lao động làm việc ở nước ngoài (Lào, Campuchia...) khi xảy ra TNLĐ, BNN chưa có hướng dẫn thực hiện.

+ Về tình hình chi quỹ ốm đau, thai sản : Tại Điều 43 mục 1 khoản a, Nghị định số: 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHXH bắt buộc. Quy định: Mức đóng vào quỹ ốm đau và thai sản bằng 3%, trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ quy định tại mục 1 và mục 2 Chương II Nghị định này. Hằng quý người sử dụng lao động có trách nhiệm quyết toán với tổ chức Bảo hiểm xã hội theo quy định.... Thực tế nhiều đơn vị SDLĐ không muốn giữ lại 2% mà chuyển đủ 3% cho cơ quan BHXH sau đó có phát sinh chứng từ thì đơn vị SDLĐ đến thanh toán trực tiếp với cơ quan BHXH. Vì số tiền quá ít hoặc không có người theo dõi và thực hiện nội dung này. Mặt khác nếu đơn vị chi sai thì khó thu hồi lại từ người lao động và quyết toán không được với cơ quan BHXH. Đối với việc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản: Trong quá trình duyệt quyết toán có nhiều đơn vị SDLĐ chậm quyết toán hồ sơ, quyết toán kinh phí chi ốm đau, thai sản với cơ quan BHXH (có đơn vị chậm hàng quý, 6 tháng hoặc cả năm), làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động.

+ Chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe: Số ngày nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe do chủ sử dụng lao động và BCH Công đoàn cơ sở quyết định, nhưng thực tế có nhiều đơn vị SDLĐ (Doanh nghiệp tư nhân) không có tổ chức công đoàn, gây khó khăn cho việc lập hồ sơ giải quyết.

+ Về chế độ chi trả trợ cấp BHXH một lần: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 30 Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHXH bắt buộc quy định điều kiện để người lao động được hưởng BHXH một lần như sau: sau 12 tháng nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lần mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH. Vấn đề này đã gây phiền phức cho người lao động nghỉ việc muốn nhận BHXH một lần vì họ phải chờ 12 tháng sau khi nghỉ việc mới được nhận chế độ.

Thanh Vân