Quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải được chi trả cho người lao động thực sự bị thất nghiệp!

15/10/2012 07:09 AM


Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đã và đang góp phần tích cực vào sự ổn định và an toàn xã hội. Mục đích của bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị mất việc làm; hỗ trợ người bị thất nghiệp một khoản kinh phí nhất định để học nghề đồng thời được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đã và đang góp phần tích cực vào sự ổn định và an toàn xã hội. Mục đích của bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị mất việc làm; hỗ trợ người bị thất nghiệp một khoản kinh phí nhất định để học nghề đồng thời được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

Qua gần 4 năm thực hiện chính sách BHTN, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức, triển khai thực hiện, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định, số lao động tham gia và số thu BHTN tăng nhanh qua các năm, việc đăng ký, lập thủ tục hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người thất nghiệp từng bước được cải thiện theo hướng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo kịp thời quyền lợi của người lao động, góp phần giải quyết một phần khó khăn khi họ bị thất nghiệp, nhất là trong giai đoạn mà nền kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động phức tạp và hết sức khó khăn hiện nay. Tuy nhiên, theo đánh giá của BHXH Việt Nam tại văn bản chỉ đạo số 3854/BHXH-CSXH ngày 26/9/2012 về việc “Tăng cường quản lý thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp” nêu rõ “Thời gian gần đây xuất hiện việc người lao động, người sử dụng lao động lạm dụng chính sách để hưởng trợ cấp thất nghiệp diễn ra ở nhiều nơi dưới nhiều hình thức, gây bất bình trong dư luận xã hội, như: Người lao động chủ động chấm dứt hợp đồng lao động để hưởng trợ cấp thất nghiệp; hoặc trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp người lao động vẫn làm việc tại đơn vị cũ hoặc đơn vị khác mà không khai báo; thỏa thuận điều chỉnh tiền lương 6 tháng cuối cùng trước khi nghỉ việc để người lao động được hưởng mức trợ cấp cao hơn; giải quyết chấm dứt hợp đồng lao động chưa đúng quy định của pháp luật về lao động hoặc trước khi đủ điều kiện nghỉ hưu, chủ sử dụng lao động cho người lao động thôi việc để làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp…các biểu hiện trên là những việc làm sai quy định của chế độ chính sách, ảnh hưởng đến sự bền vững của quỹ bảo hiểm thất nghiệp và không đảm bảo công bằng trong thực hiện chính sách việc làm và bảo hiểm xã hội”.

Từ thực trạng trên, chúng ta thử đi tìm nguyên nhân tại sao người lao động, người sử dựng lao động lại lợi dụng chính sách BHTN để lạm dụng quỹ BHTN một cách có thể coi là quá dễ dàng như vậy!

Theo quy định, điều kiện để người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm: Đã đóng BHTN từ đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm theo quy định của pháp luật; Đã đăng ký thất nghiệp với Trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL) khi bị mất việc làm theo quy định của pháp luật; Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày tính theo ngày làm việc kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với TTGTVL.

Thời điểm tính hưởng trợ cấp thất nghiệp tính từ ngày thứ mười sáu và tính theo ngày làm việc kể từ ngày đăng ký thất nghiệp. Đối với TTGTVL, trong thời gian mười lăm ngày kể từ ngày người lao động đăng ký thất nghiệp sẽ rất khó để biết được người lao động đã có việc làm chưa và thực sự có thể người lao động không vội tìm việc làm mà cứ để cho đủ điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Khi đã có Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động lại có ngay việc làm với chính đơn vị đã “làm cho họ bị mất việc làm” và có thể ngay trong tháng đầu tiên hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động đã đóng BHTN. Bởi vì, theo quy định, nếu người sử dụng lao động và người lao động đã đóng BHTN, người lao động đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động ít nhất 01 ngày trong tháng đó thì được tính là tháng đóng BHTN. Trong trường hợp này, người lao động thông báo với Trung tâm giới thiệu việc làm về việc đã có việc làm để được hưởng trợ cấp một lần bằng tổng số tiền trợ cấp thất nghiệp của số thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp còn lại của họ.

Một trong những nguyên nhân khiến người lao động “lách luật” có thể xuất phát từ chính quy định của Luật khi thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp: ba tháng nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng BHTN; sáu tháng nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng BHTN; chín tháng nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng BHTN; mười hai tháng nếu đã đóng BHTN từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng trở lên. Một cách tính toán rất đơn giản, đóng BHTN một năm được hưởng ba tháng, đóng hai năm được hưởng 3 tháng, đóng gần đủ ba năm cũng được hưởng 3 tháng (kể cả họ làm việc và đóng BHTN liên tục đến gần đủ 72 tháng thì cũng chỉ được hưởng sáu tháng trợ cấp), rất dễ hiểu khi người lao động chọn cách đóng một năm để hưởng ba tháng và mỗi năm thực hiện một lần, như vậy trong vòng ba năm tham gia BHTN, người lao động có thể được hưởng chín tháng trợ cấp thất nghiệp mà vẫn có việc làm và làm việc bình thường.

Điều gì sẽ xảy ra đối với quỹ BHTN khi tỷ lệ đóng BHTN là 3% mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN (trong đó nhà nước hỗ trợ 1%), trong khi tỷ lệ hưởng trợ cấp thất nghiệp là 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của sáu tháng liền kề trước khi bị mất việc làm và người lao động được hưởng 03 tháng trợ cấp nếu họ đã đóng đủ 12 tháng BHTN, chưa kể đối với người lao động khu vực kinh tế tư nhân (khu vực có số lượng người lao động bị mất việc làm rất lớn và chủ yếu) mức tiền lương, tiền công đóng BHTN có thể tăng đột biến trong sáu tháng cuối trước khi mất việc làm để có được mức bình quân tiền lương, tiền công tính hưởng trợ cấp cao hơn.

Nguyên nhân đã rõ, những bất cập trong chính sách và việc thực hiện chính sách, chế độ BHTN cũng đã được nêu lên, bởi vậy, cần có những điều chỉnh, bổ sung và có cơ chế quản lý phù hợp, đảm bảo cho sự an toàn của quỹ, đồng thời tránh tình trạng lạm dụng quỹ BHTN. Mặt khác cần xác định cụ thể và luật hóa các hành vi vi phạm nêu trên để có chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe và ngăn ngừa hành vi vi phạm, làm lành mạnh hóa quan hệ ba bên : người lao động – đơn vị sử dụng lao động – tổ chức BHXH. Bên cạnh đó cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc và thường xuyên của các Cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan, ban ngành chức năng ở địa phương trong việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chế độ BHXH nói chung trong đó có BHTN, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những sai phạm trong việc thực hiện chính sách BHTN. Hơn ai hết quỹ BHTN phải được thực hiện nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ thực sự bị thất nghiệp, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội và chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước.

Lê Hoàng