Tiến tới BHYT toàn dân: Hiện trạng Việt Nam và kinh nghiệm từ Hàn Quốc

19/03/2012 08:15 AM


Đánh giá hiện trạng, xác định kế hoạch mở rộng, tiến tới BHYT toàn dân của Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hơn 30 năm thực hiện BHYT tại Hàn Quốc – đó là chủ đề trọng tâm của chương trình Hội thảo do Bộ Y tế phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Cơ quan BHYT Hàn Quốc (NHIC) tổ chức ngày 15/03/2012 tại Hà Nội.

Đánh giá hiện trạng, xác định kế hoạch mở rộng, tiến tới BHYT toàn dân của Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hơn 30 năm thực hiện BHYT tại Hàn Quốc – đó là chủ đề trọng tâm của chương trình Hội thảo do Bộ Y tế phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Cơ quan BHYT Hàn Quốc (NHIC) tổ chức ngày 15/03/2012 tại Hà Nội.

 
Các đại biểu tham gia thảo luận tại Hội thảo
Hiện trạng và kế hoạch tiến tới BHYT toàn dân của Việt Nam

Báo cáo do đại diện Bộ Y tế trình bày tại Hội thảo đã khái lược những nét cơ bản nhất về quá trình hình thành, hiện trạng và kế hoạch phát triển BHYT toàn dân của Việt Nam. BHYT Việt Nam được triển khai từ năm 1992, với 04 lần điều chỉnh chính sách (từ Nghị định 299/CP; Nghị định 58/CP, đến Nghị định 63/2005/NĐ-CP và năm 2008 được thể chế hóa bằng văn bản pháp luật cao nhất là Luật BHYT).

Tính đến 31/12/2011, số người tham gia BHYT trong toàn quốc là 53,9 triệu người, đạt khoảng 63% dân số. Trong đó, nhóm đối tượng hành chính sự nghiệp, hưu trí, người có công và thân nhân cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang đã đạt tỷ lệ 100%; nhóm người nghèo, trẻ em dưới 06 tuổi với chính sách hỗ trợ 100% mức phí từ ngân sách nhà nước cũng đạt tỷ lệ cao; tiếp theo là nhóm học sinh, sinh viên; nhóm doanh nghiệp mới chỉ đạt khoảng 53,4%; cận nghèo 13,1%; người tự nguyện tham gia BHYT đạt 18%.

Với mức đóng BHYT từ 3% đến 4,5% mức lương tối thiểu và thu nhập tùy theo từng nhóm đối tượng, người tham gia BHYT ở Việt Nam được hưởng gói quyền lợi BHYT khá rộng rãi với các gói dịch vụ khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, thai nghén và sinh đẻ, hầu hết các dịch vụ kỹ thuật lâm sàng, cận lâm sàng, can thiệp điều trị, chi phí vận chuyển khi chuyển tuyến đối với một số đối tượng và chi phí thuốc với danh mục gồm 900 loại thuốc tân dược, 57 hoạt chất phóng xạ, 127 thuốc y học cổ truyền và 300 vị thuốc đông y; mức chi trả từ 80 đến 95% tùy theo từng nhóm đối tượng.

Thời gian qua, mặc dù hệ thống văn bản pháp luật về BHYT khá đầy đủ, bộ máy tổ chức làm công tác BHYT từng bước được kiện toàn, chất lượng dịch vụ y tế từng bước được cải thiện nhưng kết quả thực hiện BHYT tại Việt Nam vẫn còn chưa đạt kết quả như mong muốn. Với mục tiêu hoàn thành lộ trình BHYT toàn dân vào năm 2014 trong điều kiện còn gần 37% người dân chưa tham gia BHYT thuộc những nhóm đối tượng yếu thế, thu nhập thấp, không ổn định, sẽ thực sự là một khó khăn, thách thức.

Học tập kinh nghiệm của các nước đi trước trong thực hiện BHYT toàn dân, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước trong cùng khu vực, có những nét tương đồng về chính sách và tổ chức thực hiện như Hàn Quốc sẽ giúp cho Việt Nam tiến nhanh hơn đến đích BHYT toàn dân.

Kinh nghiệm hơn 30 năm phát triển BHYT tại Hàn Quốc

Báo cáo của ông Yang In-Seok, đến từ cơ quan BHYT Hàn Quốc cho biết: Việc thực hiện BHYT ở Hàn Quốc được bắt đầu từ năm 1977, đi trước Việt Nam 15 năm và cũng phải mất 12 năm để Hàn Quốc đạt được mức bao phủ BHYT toàn dân. Ở thời điểm năm 1977, khi bắt đầu thực hiện, nhóm dân số mục tiêu mà Hàn Quốc hướng tới chỉ gồm người lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng từ 500 lao động trở lên (độ bao phủ BHYT lúc này chỉ đạt 8,9%); năm 1979, mở ra nhóm cán bộ, viên chức và các trường tư nhân, các công ty sử dụng từ 300 lao động trở lên (độ bao phủ đạt 21,2%); năm 1981, người lao động tại các công ty sử dụng từ 100 lao động trở lên, thí điểm với nhóm phi chính quy tại 03 vùng nông thôn (độ bao phủ đạt 29,68%); năm 1982, các công ty sử dụng 16 lao động trở lên (bao phủ 35,1%); năm 1984, mở rộng đối với người ăn theo (phụ thuộc) người lao động bao gồm vợ/chồng, cha mẹ, các con, anh chị em ruột (nhóm phụ thuộc thứ nhất), cha mẹ vợ/chồng và anh, chị em bên vợ/chồng (nhóm phụ thuộc thứ hai) – độ bao phủ thời điểm này tăng lên 42,37%; năm 1988, mở rộng đến các công ty sử dụng từ 05 lao động trở lên, người dân khu vực nông thôn (độ bao phủ 68,87%); năm 1989, đạt được mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân với tỷ lệ 90,39% người dân tham gia BHYT và chia thành 02 nhóm đối tượng: (1) nhóm chính quy tham gia theo đơn vị sử dụng lao động với mức đóng là 3,7% mức thu nhập vào năm 2002 và tăng lên 5,8% mức thu nhập vào năm 2012. Người sử dụng lao động đóng 50%, người lao động tự đóng 50% (việc tăng tỷ lệ đóng góp BHYT được thực hiện dựa trên chi phí khám, chữa bệnh BHYT của năm trước và tính toán cân đối quỹ, tốc độ tăng trưởng kinh tế, khả năng đóng góp của người dân do cơ quan BHYT quốc gia tính toán và Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội Hàn Quốc quyết định; (2) nhóm phi chính quy tham gia BHYT theo hộ gia đình và được Nhà nước hỗ trợ 20% mức phí đóng BHYT. Mức đóng của nhóm phi chính quy được tính toán trên cơ sở thu nhập do Ủy ban giám sát thu nhập và cơ quan thuế thu nhập tại các địa phương cung cấp. Đơn giá của mỗi điểm phí bảo hiểm là 170 won, mức điểm sàn là 20 điểm tương ứng mức phí BHYT tối thiểu là 3.400 won và mức điểm trần là 12.680 điểm tương ứng mức phí BHYT tối đa là 2.155.600 won, như vậy mức đóng BHYT tối đa và tối thiểu lên tới 634 lần (ở Việt Nam là 20 lần). Riêng nhóm dễ tổn thương (người nghèo) không phải đóng BHYT mà do Nhà nước đảm bảo, tỷ lệ này ở Hàn Quốc là 3,7%. Điều này đã tạo ra sự chia sẻ thực sự giữa những người tham gia BHYT.

Quyền lợi của người tham gia BHYT ở Hàn Quốc khá toàn diện và được áp dụng như nhau với mọi thành viên, không phụ thuộc vào mức đóng, bao gồm 02 gói quyền lợi: chi trả bằng hiện vật (chi trả cho chăm sóc sức khỏe như khám, điều trị, xét nghiệm, thuốc, vật tư y tế, nằm viện…) và chi trả bằng tiền mặt (chi phí y tế, chế độ giảm tối đa chi phí nộp bảo hiểm…). Tỷ lệ cùng chi trả của Hàn Quốc không xác định theo đối tượng như ở Việt Nam mà xác định theo hình thức điều trị, với điều trị nội trú, người tham gia BHYT cùng chi trả 20% chi phí khám, chữa bệnh; với điều trị ngoại trú, cùng chi trả từ 30 đến 60% chi phí tùy theo từng cơ sở y tế. Khác với Việt Nam đưa ra giới hạn trần thanh toán, Hàn Quốc đưa ra giới hạn trần cùng chi trả, những bệnh nhân có chi phí khám, chữa bệnh một năm lên tới 04 triệu won thì không phải cùng chi trả, điều này đã góp phần giảm gánh nặng chi phí y tế cho những người mắc bệnh nan y, điều trị chi phí lớn.

Với hệ thống bệnh viện cung cấp dịch vụ đến 70% là y tế tư nhân và chia làm 02 tuyến khám chữa bệnh. Cùng với việc phát triển hệ thống công nghệ thông tin vào quản lý khá hoàn hảo, ở tuyến khám, chữa bệnh ban đầu, người tham gia BHYT Hàn Quốc có thể đến bất cứ cơ sở y tế nào khám và điều trị đều được hưởng quyền lợi. Điều này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các cơ sở, mỗi cơ sở y tế đều phải nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ và năng lực phục vụ để không bị mất bệnh nhân.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong giai đoạn đầu phát triển BHYT, Hàn Quốc cũng gặp không ít những khó khăn, giống như những khó khăn mà hiện nay Việt Nam đang gặp phải (người dân không mặn mà với BHYT, chất lượng dịch vụ, đội ngũ y, bác sỹ thiếu không đáp ứng được yêu cầu,…) nhưng bằng những bước đi vững chắc, Hàn Quốc đã đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:

- Thứ nhất, đó là cam kết chính trị mạnh mẽ với mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân. Trước hết là việc hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện BHYT. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đổi mới chính sách tài chính y tế, bảo đảm ngân sách đóng BHYT cho nhóm đối tượng chính sách và những người yếu thế trong xã hội.

- Thứ hai, thực hiện BHYT toàn dân phải tuân thủ chiến lược mở rộng từng bước, xây dựng lộ trình cho từng nhóm đối tượng và mở rộng đối tượng bền vững.

- Thứ ba, thay đổi nhận thức của người dân về BHYT thông qua chế tài và truyền thông. Phải thực hiện BHYT bắt buộc toàn diện và có chế tài cưỡng chế đối với những hành vi trốn tránh tham gia. Đồng thời tăng cường thông tin, truyền thông, vận động, giáo dục với nhiều hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện tiếp cận thông tin.

- Thứ tư, nâng cao năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ BHYT thông qua đào tạo liên tục. Xây dựng, triển khai chương trình đảm bảo chất lượng khám, chữa bệnh; tiêu chuẩn chất lượng đối với cơ sở khám, chữa bệnh BHYT. Tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả khám, chữa bệnh tại tuyến y tế cơ sở.

- Thứ năm, phát triển công nghệ thông tin, ứng dụng sâu rộng trong quản lý thu và chi trả chi phí khám, chữa bệnh BHYT.

Theo Tapchibaohiemxahoi.gov.vn