Thực hiện chính sách BHXH tự nguyện trên địa bàn tỉnh Gia Lai – Đôi điều suy nghĩ

05/01/2018 05:17 PM


Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội (BHXH) do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để nguồi tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất theo quy định của luật BHXH.

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội (BHXH) do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để nguồi tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất theo quy định của luật BHXH.

Trong những năm qua, các Cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ tỉnh đến cấp xã đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ về BHXH, BHYT, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về ý nghĩa, vai trò của chính sách BHXH, BHYT trong hệ thống an sinh xã hội, người dân đã từng bước thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH, BHYT, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, thể hiện rất rõ bởi chỉ tiêu đối tượng tham gia BHXH, BHYT năm sau luôn cao hơn năm trước, trong đó phải kể đến chính sách BHYT đối với đồng bào dân tộc thiểu số như hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, người nghèo, người cận nghèo…Tính đến thời điểm tháng 12/2017, Gia Lai có 1.207 người tham gia BHXH tự nguyện, tăng 1,94 lần so với năm 2012 (năm 2012 có 621 người tham gia), chiếm 1,46% so với tổng số người tham gia BHXH (82.178 người tham gia BHXH); số người tham gia BHYT trên 1.279,69 ngàn người, chiếm 88,88% dân số toàn tỉnh (dân số khoảng 1,43 triệu người), trong đó BHYT hộ gia đình trên 146 ngàn người, bằng 11,41% tổng số người tham gia BHYT.

Với kết quả số người tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn tỉnh Gia Lai, quả thực là con số rất khiêm tốn, mặc dù số người tham gia năm sau luôn cao hơn năm trước, xong, tỷ lệ % số người tham gia BHXH tự nguyện trên tổng số lao động (khoảng 882 ngàn người) của tỉnh là con số quá nhỏ bé (khoảng 0,13%). Từ năm 2012 đến nay, BHXH tỉnh đã giải quyết khoảng 230 hồ sơ hưu trí của người tham gia BHXH tự nguyện, trong đó hầu hết là người tham gia mà trước đó đã có thời gian đóng BHXH bắt buộc.

Tại Hội thảo công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc khu vực năm tỉnh Tây Nguyên tham gia BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình diễn ra hồi trung tuần tháng 11/2017 tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, một số tham luận của đại biểu có nêu, do điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém; mặt bằng dân trí thấp; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn nhiều yếu tố bất ổn; tỷ lệ hộ nghèo cao; hạ tầng kinh tế xã hội kém phát triển; người dân chủ yếu làm nông nghiệp…đã ảnh hưởng đến công tác triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT khu vực Tây Nguyên. Các chỉ tiêu phát triển người tham gia BHXH, BHYT đều thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Mặc dù, chính sách BHXH, BHYT đã hỗ trợ người dân tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình nhưng tỷ lệ tham gia rất thấp. Bất kỳ một chính sách xã hội nào, kể cả chính sách kinh tế muốn cho người dân tích cực hưởng ứng, đồng thuận cao, chính sách đó phải mang lại quyền lợi cho họ ngay trên thực tế. Đến thời điểm này, đại bộ phận người dân đã nghe, đã biết có BHXH, có BHYT. Vì các chính sách này đã có từ lâu và được luật hóa từ năm 2007 đối với BHXH, từ năm 2008 đối với BHYT. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH, BHYT có lúc được thực hiện khá “rầm rộ” với hàng loạt biện pháp, giải pháp và sự vào cuộc của không chỉ của các cơ quan thông tin đại chúng mà cả hệ thống chính trị (truyền thanh, truyền hình, báo, tạp chí, tập san, tờ rơi, pa-nô, áp-phich, đối thoại trực tiếp; Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch triển khai đến cấp cơ sở…). Nhìn từ góc độ chính sách, đi tìm nguyên nhân tỷ lệ người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa tham gia BHXH tự nguyện thấp?

Thông thường, những người bắt đầu bước sang tuổi lao động và khi trở thành người tự lập, tự lo cho cuộc sống của mình đều nghĩ đến tuổi già sẽ làm gì và làm thế nào để đảm bảo cuộc sống. Phương châm “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” chính là sự cẩn trọng trong cuộc sống mà ông cha ta đã đúc kết và trở thành một truyền thống tốt đẹp. Đến bây giờ và mãi về sau nữa, hầu hết người dân đã và đang thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, có thể do cha mẹ để lại, nhưng chủ yếu vẫn là tự bản thân mình tích cóp một số của cải, tiền bạc để phòng khi rủi ro trong cuộc sống, khi về già không còn đủ sức tạo ra thu nhập. Số tiền bạc, của cải này là của riêng họ (có thể là cả hai vợ chồng), không ai có thể biết được và họ rất an tâm với số của cải, tiền bạc này, đó chính là sự cẩn trọng và sự chắc chắn của họ. Việc tích cóp cũng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng người và từng thời điểm, vì không ai và lúc nào cũng có đủ điều kiện để tích cóp, do đó họ chủ động trong công việc này theo kiểu có thì để dành, chưa có thì chờ khi nào có, trích ra một khoản để dành (tích trữ bằng vàng hoặc gửi tiết kiệm…). Cứ như vậy, khi gặp rủi ro, khi về già họ sẽ sử dụng khoản của cải, tiền bạc này để trang trải.

Đối với chính sách BHXH tự nguyện, khác với BHXH bắt buộc (05 chế độ: Ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí, tử tuất), BHXH tự nguyện chỉ có 02 chế độ là hưu trí và tử tuất. Tham gia BHXH tự nguyện, cũng là tích cóp tiền bạc lúc còn đủ sức khỏe, nhưng không phải tự “cất giữ” mà chuyển sang cho một tổ chức do nhà nước thành lập “cất giữ” theo một quy tắc đã được luật hóa để đảm bảo sự an toàn, vững chắc của số tiền mà người dân nộp vào gọi là quỹ BHXH. Quy định của chính sách BHXH tự nguyện rất rõ ràng, quyền lợi đi với trách nhiệm và nguyên tắc đóng – hưởng được đặt lên hàng đầu, bên cạnh đó còn có sự chia sẻ giữ những người tham gia; quỹ này được nhà nước bảo hộ, không bị phá sản thể hiện tính nhân văn rất sâu sắc của chính sách này. Bởi, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, nhưng không phải quá cao và không được quá thấp (mức đóng cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở, thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn); mức hưởng lương hưu được tính trên cơ sở tỷ lệ % theo số năm đóng BHXH tự nguyện và được điều chỉnh khi nhà nước điều chỉnh mức lương cơ sở. Mặt khác, thời gian hưởng lương hưu không giới hạn (hưởng đến khi từ trần) và đó là khoản thu nhập chắc chắn, bền vững trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời một con người. Mặc dù không phải đóng tiền mua thẻ BHYT nhưng trong thời gian hưởng lương hưu, người hưởng còn được quỹ BHXH mua thẻ BHYT, được hưởng quyền lợi BHYT khi đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật BHYT.

Một đại biểu tham gia Hội thảo công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tham gia BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình tại Gia Lai có đưa ra ví dụ so sánh về quá trình tham gia BHXH tự nguyện và gửi tiết kiệm (số tiền bỏ ra là như nhau) trong 20 năm. Sau 20 năm, người tham gia BHXH tự nguyện đủ điều kiện hưởng lương hưu (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi); kỳ vọng sống trung bình sau tuổi nghỉ hưu là 20 năm. Kết quả cho thấy số tiền hưởng lương hưu và số tiền gửi tiết kiệm có sự chênh lệch khá lớn. Tổng quyền lợi được hưởng đối với người hưởng lương hưu là: 2,16 tỷ đồng (đối với nữ giới); 1,78 tỷ đồng (đối với nam giới); trong khi tổng quyền lợi gửi tiết kiệm là 1,18 tỷ đồng (số tiền lãi gửi tiết kiệm tính lãi gộp qua từng năm theo lãi suất bình quân khoảng 7%/năm); số tiền chênh lệch cụ thể: 973,3 triệu đồng (đối với người hưởng lương hưu là nữ giới), 598,3 triệu đồng (đối với người hưởng lương hưu là nam giới).

Tuy nhiên, người tham gia BHXH tự nguyện không được hưởng quyền lợi ngay trong cuộc sống hàng ngày khi đang đóng BHXH, như lúc ốm đau, thai sản, tai nạn lao động vì không tham gia đóng góp vào quỹ này do Luật không quy định; việc phải nộp vào quỹ BHXH một số tiền nhất định và thực hiện theo định kỳ mà không phải bất kỳ ai và lúc nào họ cũng sẵn sàng có đủ tiền để nộp, nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số, người sinh sống ở vùng khó khăn; thời gian đóng BHXH tự nguyện khá dài (20 năm trở lên) mới đủ điều kiện hưởng lương hưu và sự nhận thức về chế độ cũng như sự không chắc chắn theo ý thức chủ quan của họ, dẫn đến chưa đủ tin tưởng để tham gia BHXH tự nguyện.

Từ những phân tích trên, mặc dù chưa đầy đủ, có thể chỉ ở một khía cạnh nhất định, nhưng phần nào đã thấy rõ nguyên nhân người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa tham gia BHXH tự nguyện chưa cao. Vấn đề cốt lõi có lẽ chỉ nên gói gọn bởi hai chữ “quyền lợi”. Khi quyền lợi được thấy rõ ràng, chắc chắn mọi người sẽ tham gia, khi tham gia rồi thấy được “lợi ích” sẽ tiếp tục tham gia. Không có một phương thức tuyên truyền hiệu quả nào bằng giải pháp đáp ứng “quyền lợi” ngay trên thực tế và trước mắt cho người tham gia. Do đó, khi thiết kế chính sách nên đặt vấn đề quyền lợi và tạo điều kiện tốt nhất cách tiếp cận với quyền lợi như thế nào của người dân rồi mới nói đến việc họ đóng góp bao nhiêu và đóng góp như thế nào. Tuyên truyền, vận động là không thể thiếu trong bất kỳ chủ trương, chính sách nào và chính sách BHXH tự nguyện không phải là ngoại lệ, nhưng điều quan trọng nhất có tính quyết định cho sự thành công của một chính sách chính là nó mang lại quyền lợi gì và mang quyền lợi như thế nào đến tận người dân. Lợi ích trước mắt đạt được, ắt hẳn họ sẽ hướng đến những lợi ích lâu dài, thành công của chính sách chính là niềm tin, sự tin tưởng của người dân vào chính sách đó!

Lê Hoàng