Chư Sê trăn trở tìm hướng thoát nghèo

13/07/2011 07:57 AM


Số liệu điều tra về tỷ lệ hộ nghèo cho thấy các xã Ayun, Hbông, Kông Htok (huyện Chư Sê) còn 55% đến 81% hộ nghèo. Các xã này là những xã nghèo nhất trong tổng số 15 xã, thị trấn của huyện Chư Sê. Tuy những năm qua, nhờ thực hiện nhiều chương trình giúp người nghèo vươn lên nhưng vẫn còn đó đói nghèo ở những vùng khó khăn vì điều kiện thổ nhưỡng và đầu tư dàn trải của Nhà nước.

Số liệu điều tra về tỷ lệ hộ nghèo cho thấy các xã Ayun, Hbông, Kông Htok (huyện Chư Sê) còn 55% đến 81% hộ nghèo. Các xã này là những xã nghèo nhất trong tổng số 15 xã, thị trấn của huyện Chư Sê. Tuy những năm qua, nhờ thực hiện nhiều chương trình giúp người nghèo vươn lên nhưng vẫn còn đó đói nghèo ở những vùng khó khăn vì điều kiện thổ nhưỡng và đầu tư dàn trải của Nhà nước.

Xã có tỷ lệ hộ nghèo đến 81%

Giữa trưa nắng vào cuối tháng 6, tôi có mặt ở xã Ayun. Tại làng Tung Ke, rất nhiều người dân đang hóng mát dưới những bụi tre của làng. “Vì nhà chúng tôi tứ bề là tôn nên nóng lắm”-Đinh Krang, người dân làng Tung Ke nói. Còn trẻ con của làng nhiều đứa không có quần áo mặc, đen trùi trũi nô đùa dưới bãi đất, một số em thì hì hụi kiếm phân bò. Chị em Đinh Thig (7 tuổi), Đinh Tết (5 tuổi) nhặt phân bò từ sáng đến trưa cũng được đầy 2 gùi chuẩn bị đi bán cho một hộ người Kinh ở đầu xã, mỗi gùi giá có 5.000 đồng. Đất ít nên không có nhiều việc làm. Trẻ em ở nhà cắt cỏ, chăn bò, còn đàn ông thì vượt đèo Ayun kiếm việc làm lấy tiền mua gạo...

 
Cây thanh long trên đất Ayun. Ảnh: Đ.Y
Cây thanh long trên đất Ayun. Ảnh: Đ.Y
Ayun có 14 thôn làng, 688 hộ, với 3.246 nhân khẩu thì hộ nào cũng được Nhà nước cho vay vốn mua bò. Nhờ được tuyên truyền tốt nên những con bò cấp cho các hộ đều sinh sôi nảy nở. Nhưng chỉ có điều, các hộ dân ở đây làm được bao nhiêu tiêu xài bấy nhiêu chứ không biết dành dụm. Hộ nào cũng chăm chắm vào con bò cái của gia đình mình đẻ được bò con, nuôi lớn một tí là đem đổi lấy xe máy đi. Hay khi dòng họ có việc gì là lại mổ thịt. Chính một phần do phong tục còn ăn sâu vào tiềm thức của người dân nên cuộc sống vốn đã khó khăn lại càng khó khăn thêm, một năm thì có tới 9 tháng đói giáp hạt.


Diện tích đất tự nhiên của xã có tới trên 5.000 ha nhưng đất để sản xuất nông nghiệp chỉ có gần 1.200 ha, còn lại là đất lâm nghiệp. 1.200 ha đất nông nghiệp này, đất làm được lúa nước cũng rất khiêm tốn-80 ha. Diện tích còn lại thì có 188 ha đất trồng cà phê, 19 ha trồng tiêu, còn lại đất để trồng cây ngắn ngày. Song tất cả những diện tích đất này vào mùa khô cát trắng, bạc màu nên không cây con nào sống nổi. Ông Đinh Mrớ-Chủ tịch Hội Nông dân xã Ayun-cho biết: Bà con Ayun cũng chịu khó làm ăn, nhưng vì còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Hơn nữa, trên địa bàn xã chưa có kênh mương thủy lợi phục vụ cho việc sản xuất lúa nước, hoa màu nên đã khó lại càng khó hơn. 

Ông Đinh Mrớ kể: “Cách đây hơn một năm, tôi được huyện cho đi tham quan một số mô hình kinh tế tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Thấy nơi này khí hậu nóng và đất cát như Ayun nên đã mang cây thanh long về trồng thử. Cây mọc tốt vào mùa mưa nhưng đến mùa khô vì không có nước tưới nên một số cây đã chết. Còn cây điều một thời bà con được huyện cấp giống trồng nhưng khi điều càng lớn, cho quả thì bị sâu đục thân hoa rụng hết và không đậu quả”.

Ngược về xã Hbông cũng không khác xã Ayun là mấy. Đất cũng cằn sỏi đá, khí hậu khắc nghiệt. Trong 3 xã nghèo nhất của huyện Chư Sê, có lẽ xã Kông Htok mới được tách ra từ xã Dun là đất đai khí hậu ưu đãi hơn cả. Song cũng vì trình độ dân trí thấp, nhận thức của người dân còn hạn chế, nên cái nghèo cũng đeo bám thường trực.

Cần những giải pháp hỗ trợ thoát nghèo đồng bộ

Những năm qua, huyện Chư Sê đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông-lâm nghiệp. Đặc biệt, các Chương trình 135, 134 đã được Nhà nước hỗ trợ cho bà con ở địa bàn 3 xã về những chính sách trợ giá, trợ cước, giống cây trồng, lãi suất vay vốn mua bò, chuyển giao khoa học kỹ thuật góp phần không nhỏ vào giảm tỷ lệ hộ nghèo.

Song, một thực tế đang đặt ra hiện nay là những chính sách hỗ trợ hộ nghèo trên địa bàn lại phân ra nhỏ lẻ. Chẳng hạn, hợp phần hỗ trợ sản xuất do Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện thực hiện; hỗ trợ giống cây con lại do Trạm Khuyến nông; cho vay vốn hộ nghèo thì các Hội, đoàn thể và Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện triển khai. Còn các chính sách về bảo hiểm y tế, hỗ trợ tiền điện, hỗ trợ các chế độ chính sách, cấp gạo cứu đói, quản lý sự tăng giảm số hộ thoát nghèo thì do Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện thực hiện.

Ông Trần Ngọc Hoàng-Trưởng phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện Chư Sê, phân tích: Nên thực hiện chương trình giảm nghèo theo lộ trình “cuốn chiếu”. Có nghĩa là tất cả các chương trình quốc gia hỗ trợ hộ nghèo nên thu về một đầu mối và thành lập ra một Ban Quản lý hỗ trợ hộ nghèo để chúng ta có sự đầu tư tập trung hơn. Đầu tư, hỗ trợ đến từng hộ nghèo, có danh sách cụ thể, tư vấn, tuyên truyền, nắm bắt nhu cầu hộ nghèo cần quan tâm giúp đỡ việc gì thì mới đầu tư. Đồng thời khi các chính sách được quy về một đầu mối thực hiện dứt điểm hộ nào, làng nào, xã nào, như đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho đến khi hoàn thiện chương trình, đạt hiệu quả thì Ban Quản lý hỗ trợ hộ nghèo mới được rút đến các xã, làng, hộ nghèo khác. Làm được như vậy, công tác thoát nghèo mới đạt hiệu quả.

Theo Báo Gia Lai