Lấy con người làm trung tâm, vừa là động lực vừa là mục tiêu phát triển của doanh nghiệp

21/08/2017 02:21 PM


Hiện nay, một bộ phận người lao động trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp, lập thủ tục đề nghị giải quyết chế độ hưu trí.

Hiện nay, một bộ phận người lao động trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp, lập thủ tục đề nghị giải quyết chế độ hưu trí. Tất nhiên, những lao động này làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội và Bộ Y tế ban hành; có thời gian đóng BHXH vừa đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Điều đáng lưu ý, những người lao động này phần lớn đều ở độ tuổi trên dưới 40 tuổi, thời gian đóng BHXH phổ biến từ 20 năm 03 tháng đến 20 năm 07 tháng hoặc hơn một chút, dẫn đến mức lương hưu rất thấp, có nhiều trường hợp lương hưu chỉ ở mức 1,5 triệu đến 02 triệu đồng/tháng và không có trường hợp nào vượt quá 03 triệu đồng/tháng. Lý do thời gian tham gia BHXH ngắn, mức đóng thấp và người lao động đều biết nghỉ hưu trước tuổi thì bị trừ tỷ lệ % mức hưởng lương hưu (trừ 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi). Tỷ lệ % mức hưởng lương hưu được tính trên cơ sở số năm đóng BHXH mà số năm đóng BHXH thấp thì tỷ lệ % mức hưởng lương hưu thấp, có người chỉ được hưởng lương hưu với tỷ lệ % mức hưởng 32% đến 33%, thậm chí có người tỷ lệ % hưởng lương hưu chỉ đạt 29% như trường hợp ông Lê Văn V, sinh năm 1975, có 20 năm 03 tháng đóng BHXH, làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, bị suy giảm khả năng lao động 81%, mức hương hưu tại thời điểm tháng 7/2017 là 1,21 triệu đồng/tháng; ông Trương Văn T, sinh năm 1978, có 20 năm 03 tháng đóng BHXH, làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, bị suy giảm khả năng lao động 81%, tỷ lệ hưởng lương hưu là 23%, mức lương hưu tại thời điểm giải quyết hưởng là 1,46 triệu đồng/tháng. Mặc dù, các chính sách, chế độ BHXH đã được cơ quan BHXH phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể ở địa phương tổ chức đối thoại trực tiếp và tuyên truyền, phố biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng người lao động vẫn “kiên quyết” nghỉ việc để hưởng lương hưu! Vậy, nguyên nhân từ đâu?

Xét ở góc độ quy định của pháp luật, đơn vị sử dụng lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh phải đóng một khoản kinh phí vào quỹ BHXH, BHYT, BHTN để thực hiện các chế độ cho người lao động. Tổng mức đóng bằng 32% trên mức tiền lương tháng, trong đó, người sử dụng lao động đóng bằng 21,5% trên quỹ lương của đơn vị (quỹ ốm đau, thai sản bằng 3%; quỹ TNLĐ-BNN bằng 0,5%; quỹ BHTN bằng 1%; quỹ hưu trí, tử tuất bằng 14%; quỹ BHYT bằng 3%); người lao động đóng bằng 10,5% trên tiền lương tháng (quỹ hưu trí, tử tuất bằng 8%; quỹ BHTN bằng 1%; quỹ BHYT bằng 1,5%). Với mức đóng như vậy, mặc dù không phải là quá cao, nhưng người sử dụng lao động và người lao động đều có xu hướng tìm cách để “khỏi phải đóng” BHXH, BHYT, BHTN hoặc người sử dụng lao động tìm cách để đóng ít hơn. Một vài “chiêu thức” điển hình mà người sử dụng lao động áp dụng là ghi tiền lương, tiền công trong Hợp đồng lao động thấp hơn so với thu nhập thực tế mà chủ sử dụng lao động trả cho người lao động; thanh lý Hợp đồng lao động với người lao động làm việc lâu năm, đồng thời tuyển mới lao động phổ thông, vì số lao động lâu năm có tiền lương cao hơn nhiều so với người mới vào làm việc, nên khoản tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN cũng sẽ cao tương ứng, trong khi người mới vào làm việc mức lương thấp, thì sẽ phải đóng thấp hơn.

Nhiều trường hợp “lách luật” với cơ quan BHXH trong việc người lao động có làm việc nhưng không phải đóng BHXH, BHYT, BHTN. Minh chứng cho điều này là người lao động tại một số doanh nghiệp Nông – Lâm nghiệp làm việc trong môi trường đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội và Bộ Y tế ban hành, người sử dụng lao động và người lao động chỉ đóng đủ 20 năm hoặc hơn vài ba tháng là nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí với mức “suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên” và độ tuổi của người lao động phần lớn chỉ trên dưới 40 tuổi. Sau khi người lao động có quyết định hưởng chế độ hưu trí (mặc dù mức lương hưu rất thấp như đã nêu ở trên), người sử dụng lao động tiếp tục Hợp đồng lao động lại với người lao động, tiền lương, tiền công có thể vẫn như trước khi nghỉ việc hưởng lương hưu, nhưng người sử dụng lao động không phải đóng một khoản kinh phí bằng 21,5% trên mức lương của người lao động, vì theo quy định của Luật, người hưởng lương hưu đang giao kết hợp đồng lao động thì không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, không phải đóng BHTN; không phải đóng BHYT vì quỹ BHXH đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu. Mặt khác người sử dụng lao động có thể sử dụng được một lực lượng lao động có tay nghề cao, kinh nghiệm lâu năm – một yếu tố quan trọng để tạo ra năng suất lao động cao, mà năng suất lao động cao sẽ tạo ra lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và đó chính là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp – mục tiêu lợi nhuận.

Về phía người lao động, không ngoài ý nghĩa trên, sau khi hưởng lương hưu, họ tiếp tục Hợp đồng lao động với người sử dụng lao động. Cũng với mức tiền lương, tiền công đó nhưng họ không phải đóng một khoản BHXH, BHYT, BHTN bằng 10,5% mức lương theo Hợp đồng lao động, nên họ được hưởng 100% lương hợp đồng, cộng với khoản tiền lương hưu hàng tháng, chung quy lại, thu nhập cao hơn trước khi nghỉ hưu và điều quan trọng không kém là họ vẫn được hưởng quyền lợi BHYT, vì thẻ BHYT của người hưởng lương hưu do Quỹ BHXH đóng. Quả thực là “lợi đơn, lợi kép” cho cả người sử dụng lao động và người lao động trong trường hợp này.

Chính sách BHXH, BHYT, BHTN nhằm bù đắp toàn bộ hoặc một phần thu nhập cho người lao động gặp rủi ro trong quá trình lao động, trong cuộc sống hàng ngày khi không may bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, khi hết tuổi lao động hay lúc thai sản và cả khi từ trần thân nhân của họ được hưởng một khoản trợ cấp theo quy định, thể hiện bản chất nhân văn rất sâu sắc chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta, mỗi chính sách xã hội hay chính sách phát triển kinh tế đều hướng đến con người, coi con người là trung tâm, vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Tuy nhiên, ở đâu đó, một bộ phận người sử dụng lao động và ngay cả bản thân một bộ phận người lao động chưa ý thức đầy đủ mục tiêu của sự phát triển bền vững, vẫn còn tìm cách này hay cách khác “lách luật” để không phải đóng hoặc đóng với mức thấp hơn số tiền BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động, chỉ vì những lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài và sự phát triển bền vững của xã hội. Không những ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp, mà ngay cả người lao động, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, không tự mình tạo ra thu nhập, trong khi mức thu nhập từ lương hưu lại thấp, không đảm bảo nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống sẽ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Doanh nghiệp muốn phát triển và phát triển bền vững phải lấy người lao động làm trung tâm, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực, tay nghề và chăm sóc sức khỏe người lao động là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Ngay cả một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay cũng lấy con người làm trung tâm và luôn hướng tới mục tiêu cơ bản và lâu dài: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017) đã xác định tính “Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”.

Hơn ai hết, bên cạnh sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và toàn xã hội cần nhận thức, ý thức trách nhiệm cao hơn nữa về chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Thực hiện tốt chính sách này là đảm bảo lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước.

Lê Hoàng